Sau khi phải chứng kiến nhiều sản phụ chết vì nhiễm trùng sau sinh, bác sĩ Semmelweis đã đưa ra lời kêu gọi nhân viên y tế thực hành rửa tay sạch để tránh lây vi khuẩn, tuy nhiên, lúc bấy giờ, ý kiến này đã không được ủng hộ và còn bị phản đối kịch liệt, thậm chí mọi người còn cho rằng ông bị tâm thần.
1. Lịch sử ra đời của việc thực hành rửa tay
Vào thế kỷ 19, bác sĩ nội trú khoa sản của Bệnh viện Đa khoa Vienna, Ignaz Philipp Semmelweis được mệnh danh là “ vị cứu tinh của các sản phụ” bởi vì ông đã lên tiếng kêu gọi các bác sĩ thực hành rửa tay nhằm hạn chế việc lây lan vi khuẩn cho người bệnh.
Tuy nhiên, lúc bấy giờ, ý kiến này đã khiến ông và các đồng nghiệp xảy ra mâu thuẫn vô cùng nghiêm trọng, họ coi ông là kẻ điên. Semmelweis được tài liệu y khoa thế giới xác nhận rằng đã làm cho cả ngành y chao đảo sau khi sự thật phũ phàng được phanh phui về vấn đề nhiễm khuẩn tại bệnh viện.
Vào những năm 1840, tại Hungary, nhằm tạo cơ hội thực hành lâm sàng cho nhân viên, một số bệnh viện và trường kinh doanh thương mại dịch vụ chăm sóc y tế tổ chức mô hình khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Tại nơi bác sĩ Semmelweis công tác, 2 phòng khám theo mô hình này cũng được mở ra. Một phòng được dùng để đào tạo nữ hộ sinh, tại đây, tỷ lệ tử vong của sản phụ là 1/25. Một phòng khác là nơi đào tạo sinh viên thực tập, tỷ lệ tử vong của người bệnh là 1/10.
Sau vài tháng, số sản phụ sinh con tử vong tại các phòng khám trên lên đến 1⁄3 trên tổng số. Vì tỷ lệ tử vong tăng lên một cách bất thường các bác sĩ đã rà soát nhằm xác định nguyên nhân, và phát hiện một điều đó là ở thời kỳ hậu sản, các sản phụ trước khi tử vong đều bị sốt cao.
Bác sĩ Semmelweis nhận ra rằng tỷ lệ tử vong ở những ca đẻ rơi ngoài đường thậm chí còn thấp hơn cả những sản phụ sinh con tại các phòng khác. Đây là một điểm vô cùng mâu thuẫn. Sau đó, ông đã quyết định rời khỏi bệnh viện Vienna bởi không lý giải được nguyên nhân. Sau một thời gian, ông nhận được tin bạn thân của mình qua đời bởi trong lúc khám nghiệm tử thi, sinh viên thực tập đã vụng về đam dao vòng vùng bụng. Và ông nhận ra, hình ảnh của người bạn thân qua đời giống với hoàn cảnh của những sản phụ đã tử vong.
Ông đã đưa ra giả thiết rằng các bác sĩ và thực tập sinh đã tiếp xúc với các chất dạng hạt nhỏ từ xác chết trong quá trình khám nghiệm tử thi. Sau đó, các hạt này truyền sang các sản phụ. Điều này được coi là bước ngoặt đầu tiên trong lịch sử y tế, đã có người đặt vấn đề về mối liên hệ giữa nguy cơ nhiễm trùng và tử thi.
Tuy chưa có nghiên cứu rõ ràng nhưng Semmelweis quyết định hành động, trước khi người bệnh hay thực hiện phẫu thuật, đỡ đẻ, ông bắt buộc các nhân viên y tế trong phòng khám phải rửa tay bằng clo. Ông cho rằng việc chỉ rửa tay bằng xà phòng bình thường ở các nhân viên thường xuyên tiếp xúc với tử thi là không đủ để loại bỏ các hạt từ tử thi bởi mùi xác chết vẫn còn lưu lại trên tay. Giải pháp rửa với clo cũng được ông giới thiệu tới các bệnh viện khác nhằm loại bỏ mùi tử thi trên tay và hy vọng các hạt từ xác chết cũng được loại bỏ.
Sau 3 tháng triển khai áp dụng phương pháp trên, bước đầu ghi nhận số ca tử vong tại các phòng khám giảm mạnh từ 1/10 xuống còn 1/100. Tuy nhiên, với thời điểm đó, bởi không có một cơ sở lý thuyết nào để giải thích nên ý kiến của ông đã bị các đồng nghiệp phản đối. Họ cho rằng ông bị tâm thần. Thực tế, trong chính lý luận của mình, ông cho rằng nguyên nhân gây ra cơn sốt là do các hạt từ xác chết, nhưng vẫn chưa lý giải được tại sao một số sản phụ mặc dù không tiếp xúc với những người từng chạm vào tử thi nhưng vẫn bị sốt. Các bác sĩ đã lên án giả thiết của Semmelweis và cho rằng điều này chẳng khác nào buộc tội các bác sĩ đã gây bệnh, đây là một sự sỉ nhục trong lịch sử nghề y.
Semmelweis bị các đồng nghiệp phản đối một cách dữ dội. Họ cũng ký xác nhận rằng ông bị điên. Semmelweis bị gửi đến bệnh viện tâm thần bởi 3 bác sĩ khoa sản. Trong một lần về thăm vợ con, ông bị đánh và qua đời do nhiễm trùng ở tuổi 47.
Ngày nay, Semmelweis được lịch sử thế giới ghi nhận là người có đóng góp công lao rất lớn đối với ngành y. Tên ông được đặt cho một số trường y, bệnh viện, phòng khám sản phụ khoa và viện bảo tàng. Ông được xem là vị cứu tinh của các sản phụ.
2. Vai trò của rửa tay tại bệnh viện
Đối với những người làm việc trong ngành y tế, vệ sinh tay đóng vai trò vô cùng quan trọng, kể cả đối với cộng đồng. Nếu không rửa tay trước khi chạm vào mắt, mũi hay miệng, bạn rất dễ nhiễm bệnh đường hô hấp như cảm lạnh, cúm…
Rửa sạch bàn tay giúp ngăn ngừa tình trạng nhiễm trùng. Giữ tay sạch ngăn ngừa mắc bệnh tại nơi công cộng, ở nhà, hay ở chỗ làm việc…Ở các cơ sở y tế, nơi giữ trẻ, trường học và các khu vui chơi, khu vực công cộng, thực hành rửa tay là biện pháp vô cùng quan trọng. Đây cũng là biện pháp đảm bảo sự an toàn khi sử dụng thực phẩm.
Tại các cơ sở y tế, thực hành rửa tay có thể ngăn ngừa tình trạng nhiễm trùng có khả năng gây tử vong, khiến lây lan từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác, từ bệnh nhân sang cho nhân viên y tế và ngược lại.
Khi khám bệnh, điều trị hay chăm sóc cho người bệnh, bàn tay của nhân viên y tế chứa rất nhiều các tác nhân gây bệnh, thậm chí có thể có nhiều mầm bệnh, bao gồm cả những mầm bệnh gây nguy hiểm, đe dọa tính mạng của người bệnh. Chính vì thế, trong việc kiểm soát nhiễm khuẩn tại bệnh viện, vệ sinh tay được coi là việc làm thường quy cũng như là giải pháp hàng đầu.
3. Thực trạng việc thực hành rửa tay hiện nay
Trong suốt những năm qua, nhiều cuộc nghiên cứu đã được thực hiện và chỉ ra rằng tỷ lệ bác sĩ rửa tay đã thay đổi rất nhiều. Trong thời gian đầu, trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt, chỉ có 26% nhân viên thực hành rửa tay và 36% ở các khoa khác. Tỷ lệ này đã tăng lên 50% sau khi hệ thống giám sát việc vệ sinh tay được các bệnh viện lắp đặt. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mỗi năm khoảng 100.000 người Mỹ tử vong và 17.000 người nhiễm trùng do các bác sĩ không có thói quen rửa tay tại bệnh viện.
Trên thực tế, hiện nay, rất nhiều y bác sĩ vẫn chưa thực hành rửa tay đúng cách và đủ. Có rất nhiều lý do được đưa ra, chẳng hạn như do họ quá bận rộn hay họ cảm thấy bất cứ khi phải vệ sinh tay sau mỗi lần ra vào toilet. Cho đến nay, vệ sinh tay vẫn là một nỗi nhức nhối trong ngành y, nhiều biện pháp rửa tay nhanh đã được phát minh nhằm đem đến sự thuận tiện hơn. Thậm chí có cơ sở còn lắp đặt thiết bị hiện đại nhắc nhở các bác sĩ rửa tay.
Tại Việt Nam, những năm gần đây, Bộ y tế đã phát động phong trào vệ sinh bàn tay ở cả bệnh viện và cộng đồng. Giữ gìn vệ sinh trong đó có vệ sinh tay có thể phòng ngừa được những căn bệnh truyền nhiễm đã và đang diễn ra, biện pháp đơn giản nhất là rửa tay bằng xà phòng.
Vệ sinh tay là biện pháp đầu tiên của 9 biện pháp phòng ngừa chuẩn trong chăm sóc người bệnh.
Bài viết tham khảo nguồn: npr.org